Affichage des articles triés par pertinence pour la requête Giuse. Trier par date Afficher tous les articles
Affichage des articles triés par pertinence pour la requête Giuse. Trier par date Afficher tous les articles

mercredi 19 mars 2014

THÁNH GIUSE BẠN TRĂM NĂM CỦA ĐỨC MARIA

Lễ Thánh GIUSE 19-03


Mừng lễ thánh Giuse năm nay chúng ta có điều vui mừng và phấn khởi hơn, trước là vì tên thánh Giuse đã được đưa vào đủ trong tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể, sau là chúng ta đang sống trong năm Phúc Âm hóa đời sống gia đình.

Nói đến gia đình thì thánh Giuse là gương mẫu tuyệt vời cho các gia trưởng. Ngài cũng có được những nhân đức như Đức Maria : khiêm nhường, khiết tịnh và vâng lời, chúng ta cùng nhau chia sẻ những nhân đức đó của Ngài.
  • Thánh Giuse : con người khiêm nhường
Người có lòng khiêm nhường thật không cần tự hạ mình xuống trước mặt mọi người, không cần đánh giá thấp bản thân, mà là biết nhận định trung thực về những gì là tốt xấu nơi bản thân mình. Hơn nữa người có lòng khiêm nhường biết nhìn nhận giá trị của người khác. Qua đó, người khiêm nhường biết tôn trọng và quan tâm đến người chung quanh, biết đặt những nhu cầu, quyền lợi và hạnh phúc của người chung quanh lên trên nhu cầu, quyền lợi và hạnh phúc riêng của mình với cách sống : “Mình vì mọi người”.

Thánh Giuse biết mình thua kém Đức Maria và Chúa Giêsu, nhưng ngài đã khiêm nhường chấp nhận vai trò làm chồng Đức Maria và cha nuôi Chúa Giêsu.
  • Thánh Giuse : con người khiết tịnh
“Đức khiết tịnh làm giảm bớt bản năng giới tính của phái nam và phái nữ khi liên hệ đến các mục tiêu của họ. Theo ý Thiên Chúa, bản năng giới tính là một phần trong con người, buộc họ phải sống cho phù hợp với ơn gọi là con cái Thiên Chúa. Nhưng chúng ta sống trong tội lỗi và điều này khiến chúng ta có những mối quan hệ sai lệch với những điều tốt lành trong thế giới này; chúng ta có khuynh hướng tuyệt đối hoá quá mức các giá trị không thuộc về Thiên Chúa. Sống trong Nước Trời đòi buộc chúng ta phải chết cho tội lỗi và sống niềm vui cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô. Vì lý do này, khi xem xét các mục tiêu của bản năng giới tính, thánh Thomas cho rằng khiết tịnh là một nhân đức kiềm chế sự thèm khát dục tính. Sống khiết tịnh là sống bản năng giới tính theo giá trị đã được ấn định theo ý Thiên Chúa. Nhân đức này tác động đến những trạng thái sống khác nhau: hôn nhân, đời sống độc thân và đời sống độc thân thánh hiến”.(J.M. Pohier, Tâm lý và thần học, Nxb. Du Cerf, Paris 1967, tr. 341.)

Với bài Tin mừng nói về thánh Giuse hôm nay, một vài nhà Thánh Kinh gọi là câu chuyện truyền tin cho thánh Giuse. Thiên thần hiện ra với thánh Giuse trong giấc mộng, và khuyên thánh nhân đừng ngại nhận Đức Maria về nhà làm vợ mình dù đang mang thai. Vì bào thai trong lòng Mẹ là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, không phải do xác thịt hay máu huyết.

Như thế ngài được chọn, thay mặt cho Thiên Chúa, trở thành người cha của Chúa Giêsu ở trần gian. Ngài đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, giữ gìn Mẹ, mà vẫn luôn tôn trọng sự trinh khiết của Mẹ.
Gương thánh Giuse là một bài học cho các bậc làm chồng về đức khiết tịnh. Không phải tới tuổi già mới sống đời khiết tịnh.
  • Thánh Giuse : con người vâng lời
Đức Maria thưa lời “xin vâng” thánh ý Chúa, còn thánh Giuse thì không nói gì mà chỉ thực hiện “xin vâng” mọi nơi mọi lúc trong suốt đời.
Ngài đã vâng lời nhận Đức Maria về nhà làm vợ.
Ngài đã vâng lời đưa Đức Maria về quê quán Bêlem để kê khai sổ bộ và chấp nhận cảnh Chúa Giêsu sinh ra trong hang bò lừa.
Ngài đã vâng lời đem Hài Nhi và Mẹ Người giữa đêm khuya trốn sang Ai Cập.
Ngài đã vâng lời đem Hài Nhi và Mẹ Người trở về Nagiarét.
Ngài đã vâng lời đem Hài Nhi lên Giêrusalem theo Lề Luật qui định.

Sự vâng phục của thánh Giuse có nguồn gốc từ nội tâm. Ngài vâng phục Thiên Chúa bằng một bản năng siêu nhiên. Thánh Giuse vâng phục không phải chỉ bảo sao làm vậy mà còn do tâm trí của ngài phải luôn hoà hợp với thánh ý Thiên Chúa.

Vâng lời như là một bài kiểm tra về tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Thực thi thánh ý Chúa là chứng minh tình ta yêu Chúa. Ở đâu có vâng phục, ở đó có tình yêu. Ở đâu có sự vâng phục nhiều, ở đó có tình yêu nhiều.

Như vậy, một cách để “gia tăng đức ái” theo chủ đề sống trong năm nay của giáo phận là chúng ta noi gương thánh Giuse luôn biết sống vâng phục thánh ý Chúa dù gặp phải bất cứ hoàn cảnh nào.
 
Tác giả bài viết: Lm. F.X Trần Đăng Đức  

Nguồn tin: Gpquinhon.org

mercredi 20 mars 2013

Vị gia trưởng gương mẫu




Vị gia trưởng gương mẫu

Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng

Gia đình truyền thống của Việt Nam bao gồm ông bà, cha mẹ và con cái cùng chung sống. Trong nếp sống này, ông bà nhận được sự kính trọng và hiếu thảo từ nơi con cháu; vợ chồng yêu thương nhau; cha mẹ là chỗ dựa vững chắc về vật chất và tinh thần cho con cái; còn con cái là tương lai và niềm hy vọng của gia đình và xã hội.

Thế nhưng các giá trị quý báu đó đang bị mai một dần, mái ấm gia đình có nguy cơ biến thành nhà trọ, để vợ chồng và con cái nghỉ chân mỗi khi đêm về. Là Kitô hữu và nhất là với tư cách gia trưởng trong gia đình, bạn nghĩ gì về thực trạng này?


Sẽ có nhiều lý do để biện minh, nhưng dù sao đi chăng nữa, người gia trưởng là người có trách nhiệm lớn nhất trong gia đình.

Nhân ngày đại lễ kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta cùng nhau học hỏi về đời sống gương mẫu của vị gia trưởng. Ta thấy, thánh nhân là người Do thái đạo đức, giữ luật một cách nhiệm nhặt. Ngài cũng là người chồng, người cha mẫu mực. Nhưng trên hết mọi sự, thánh Giuse đã biết kết hiệp mật thiết với Chúa cả trong đời sống cầu nguyện cũng như đời sống lao động.

1. Thánh Giuse, một mẫu gương cầu nguyện
Cả đời thánh nhân là một lời cầu nguyện liên lỉ. Ngài luôn kết hiệp mật thiết với Chúa, nhờ đó ngài luôn nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thực hành. Phúc Âm kể:

  • Khi Đức Mẹ mang thai trước khi về chung sống, chắc chắn lòng Giuse lúc đó rối như tơ vò. Nhưng khi đã nhận ra thánh ý Chúa và biết được Đức Mẹ chịu thai bởi Chúa Thánh Thần, ngay lập tức, Giuse đón nhận Maria về sum họp.
  • Khi được thiên thần báo cho biết vua Hêrôđê tìm giết Hài Nhi Giêsu, tức thì thánh nhân đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập.
  • Rồi khi thiên thần bảo đem Hài Nhi về, ngài liền thi hành ngay.

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Giusecũng đều chạy đến với Chúa để đón nhận thánh ý của Người. Bầu khí cầu nguyện bao trùm lên cuộc sống của ông và tiếp cho ông một sinh khí: thánh ý Chúa trở nên lương thực của thánh nhân.


2. Thánh Giuse, một mẫu gương lao động
Phúc Âm cho chúng ta biết thánh Giuse làm nghề thợ mộc. Ngài đã chọn nghề này làm kế sinh nhai và để nuôi sống gia đình Nazareth. Vẫn biết rằng nghề thợ mộc chẳng nhàn hạ chút nào, càng không thể làm giầu được, thế nhưng thánh nhân vẫn làm nghề này với tất cả lòng yêu mến trong suốt thời gian dài (ít là khoảng thời gian Chúa Giêsu sống ẩn dật tại gia đình Nazareth).

Lao động không đơn thuần vì mưu sinh, cao hơn thế, thánh Giuse dùng đó làm phương tiện để nên thánh. Ngài đã thánh hoá công việc, biến lao động thành lời cầu nguyện, biến xưởng mộc thành nguyện đường. Ngài đã khoác cho lao động một ý nghĩa: lao động là để cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo và là phương thế để nên thánh. Với mẫu gương này, thánh Giuse đã được Giáo Hội tôn làm quan thầy giới lao động.


Lao động và cầu nguyện là hai thứ không thể tách rời và không thể thiếu trong đời sống Kitô hữu. Nếu lao động nuôi sống thân xác, thì cầu nguyện giúp ta gặp gỡ Chúa và nhận ra thánh ý của Người. Thế nhưng việc cầu nguyện và lao động của chúng ta còn mang tính vụ lợi.


  • Xưa thánh Giuse cầu nguyện để nhận ra thánh ý Chúa và đón nhận cách mau mắn, thì nay chúng ta cầu nguyện thường để bắt Chúa làm theo ý ta.
  • Xưa thánh Giuse lao động với tất cả lòng yêu mến và dùng nó để nên thánh, thì nay chúng ta lao động một cách chẳng đặng đừng: lao động chỉ vì đồng tiền bát gạo.

3. Bài học áp dụng
3.1 Vậy ngay từ hôm nay, khi bắt tay vào bất cứ công việc gì bạn hãy thử làm với tất cả lòng yêu mến và ý thức đó là phương tiện giúp bạn phục vụ Chúa và tha nhân.

3.2 Và mỗi khi đứng trước một biến cố trong cuộc đời, bạn thử tìm đến Chúa và xin Người chỉ bảo, xem kết quả ra sao?

3.3 Đồng thời bạn hãy tin rẵng xưa kia thánh Giuse đã dùng tài trí, sức lực, lòng dũng cảm và can đảm để bảo vệ gia đình Thánh Gia qua mọi cơn thử thách, thì nay làm sao ngài có thể làm ngơ không cầu bầu trước mặt Chúa cho chúng ta, mỗi khi chúng ta gặp thử thách?


Vâng, ngài thật gần gũi với mọi gia đình của chúng ta, thật xứng đáng là quan thầy mọi gia đình. Vậy mỗi khi gia đình chúng ta gặp thử thách, hãy đến với thánh Giuse.

Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng

lundi 19 mars 2012

Lễ Thánh Giuse (19-03)


NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KỲ DIỆU

Lễ Thánh Giuse

Tên Giuse dễ khiến ta liên tưởng đến tổ phụ Giuse trong Cựu ước. Vì thánh cả Giuse và tổ phụ Giuse không những có cùng tên mà còn đi trên cùng một con đường thiêng liêng.


Cuộc đời tổ phụ Giuse thật lạ lùng. Là một trong 12 người con của tổ phụ Giacob. Vì là con áp út, sinh ra trong lúc cha mẹ đã già, nên Giuse được cha mẹ yêu mến một cách đặc biệt. Vì thế bị anh em ghen ghét và muốn giết đi. Gặp cơ hội, các anh em bán Giuse cho lái buôn sang Ai cập. Tại Ai cập ngài bị làm nô lệ, bị cáo gian và bị tống ngục. Nhưng nhờ có thể giải nghĩa các giấc mơ, ngài được vua Ai cập phong làm tể tướng để cứu giúp dân. Nhờ đó ngài cứu dân Ai cập khỏi nạn đói. Khi đó bên Do thái cũng bị nạn đói, phải sang Ai cập mua thóc lúa, tổ phụ Giuse đã tha thứ, đón tiếp các anh em và cả cha già sang Ai cập.

Cuộc đời thánh cả Giuse cũng thật lạ lùng. Sống đồng trinh nhưng đã vâng lệnh Chúa mà kết hôn với Đức Mẹ. Muốn bỏ Đức Mẹ mà trốn đi, nhưng đã nghe lời Chúa trở lại nhận Đức Mẹ. Sinh sống ở Nazareth nhưng phải về Belem mà khai hộ tịch. Đang lúc xa nhà lại sinh con nên phải thiếu thốn. Bị Hêrođê tìm giết nên phải đem Chúa Giêsu và Mẹ Maria trốn sang Ai cập. Làm chủ gia đình nhưng hết tình phục vụ. Làm cha nuôi Chúa Cứu Thế nhưng phải sống đời thợ thuyền vất vả.

Đường đời của các ngài đã có những kỳ diệu. Nhưng con đường thiêng liêng của các ngài còn kỳ diệu hơn. Đó là con đường vâng theo thánh ý Chúa.

Vâng theo thánh ý Chúa nên các ngài chấp nhận mọi hoàn cảnh. Dù hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi, các ngài vẫn bình thản. Dù vất vả hay nhàn hạ, các ngài luôn bình tĩnh. Dù ở địa vị lao động thợ thuyền hay quyền cao chức trọng, các ngài vẫn bình dân. Dù gặp hoạn nạn hay gặp may mắn các ngài vẫn bình tâm. Chấp nhận mọi hoàn cảnh Chúa gửi đến nên tâm hồn các ngài luôn bình an.

Vâng theo thánh ý Chúa nên các ngài đón nhận mọi người. Tổ phụ Giuse đón nhận anh em dù anh em ghen ghét ngài. Thánh Cả Giuse đón nhận Đức Mẹ dù không hiểu. Tổ phụ Giuse đón nhận cả quan lại lẫn thứ dân, cả phạm nhân lẫn vua chúa, không trừ một ai. Thánh Giuse cũng đón nhận tất cả mọi người không phân biệt, không thù oán dù những người làm hại mình. Tin rằng mọi người gặp trên đời đều do Chúa gửi đến. Đón nhận tất cả để tha thứ tất cả, để hoán cải tất cả và để yêu thương tất cả.

Vâng theo thánh ý Chúa nên các ngài đã trở nên dụng cụ hữu hiệu trong tay Chúa. Tổ phụ Giuse trở thành người cứu giúp dân chúng khỏi nạn đói kém, không chỉ dân Ai cập mà còn cả các dân nước chung quanh. Nhất là đóng góp vào lịch sử cứu độ của Chúa đối với dân Chúa chọn. Thánh Giuse đóng góp tích cực vào mầu nhiệm cứu chuộc khi trở thành bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria, trở thành cha nuôi Chúa Cứu Thế, góp phần quan trọng làm cho công cuộc cứu độ của Chúa được thực hiện thành công.

Ngoan ngoãn để Chúa dẫn đi, nên Chúa đã đưa dẫn các ngài qua những nẻo đường mà các ngài không ngờ tới. Nẻo đường có nhiều bóng tối nhưng cuối cùng dẫn đến ánh sáng. Nẻo đường có nhiều gian khổ nhưng cuối cùng dẫn đến hạnh phúc. Nẻo đường tưởng chừng thất bại nhưng dẫn đến thành công. Nhìn vào cuộc đời các ngài ta thấy bàn tay Chúa thật kỳ diệu. Chúa dùng cả những điều tưởng chừng là xấu xa để làm nên những điều tốt đẹp. Chúa dùng cả những điều tưởng chừng đi ngược với chương trình để hoàn thành chương trình của Chúa. Chúa dùng những con người tầm thường bé nhỏ khiêm tốn để làm nên những việc lạ lùng. Xin tạ ơn Chúa muôn đời.

Mừng lễ thánh Giuse ta hãy noi gương thánh Cả biết luôn tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành trong khiêm nhường. Nếu ngoan ngoãn để Chúa dẫn đi, ta sẽ được Chúa dẫn đi trên những nẻo đường thật kỳ diệu, những nẻo đường mà chúng ta không bao giờ ngờ tới.

Lạy Thánh Cả Giuse xin cầu cho chúng con. Amen.

+Giuse Ngô quang Kiệt
Tổng Giám Mục Hà Nội

Nguon : DCCT (Posted on by GIỚI TRẺ TÂN ĐỘ )

Ánh Sáng Đô Thị
Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và cũng có lẽ là một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề là: "Ánh sáng đô thị". Đó là câu chuyện tình của một gã lang thang và một cô gái bán hoa.
Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỷ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là Charlot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Cô gái bán hoa tưởng chàng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã chớm nở và nối kết hai tâm hồn. Nàng tưởng mình gặp được người mình mơ mộng từ lâu nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa của nàng.
Nhưng chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng đã bị cảnh sát giam giữ. Sau một thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho nàng, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng. Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Người con gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: "Cô đã thấy được rồi sao?…". Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc. Nàng từ từ nhặt cánh hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: "Anh đấy sao?". Thế là cả hai đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa…
Cuộc gặp gỡ trong bất cứ một cuộc tình nào cũng là hình bóng của cuộc gặp gỡ trong đức tin giữa chúng ta và Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta là những con người có tự do. Do đó Thiên Chúa không nói với chúng ta bằng một ngôn ngữ nào khác hơn là tình yêu. Tình yêu không bao giờ là một cưỡng bách, nhưng là một mời gọi tự do.
Những người Do Thái thời Chúa Giêsu đòi hỏi những dấu lạ, những bằng chứng hiển nhiên về sứ mệnh của Ngài. "Ông hãy làm cho chúng tôi một dấu lạ".
Ngày nay thì trái lại, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, con người dường như không còn tin ở phép lạ nữa. Tưởng mình có thể chế ngự và làm chủ vũ trụ, con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta có thể ngạc nhiên tại sao Thiên Chúa không làm phép lạ nhãn tiền cho những người biệt phái hay cho những kẻ vô thần ngày nay. Tại sao Ngài không viết tên Ngài trên trời để xóa tan mọi nghi ngờ trong lòng người? Thiên Chúa có lối sư phạm của Ngài. Ngài đã không là Thiên Chúa của những điềm lạ cả thể, nhưng là một Thiên Chúa đã chọn lựa làm tôi tớ để chinh phục tình yêu và lòng tín nhiệm của con người. Thiên Chúa không những là một Thiên Chúa của quyền năng ở bên trên con người, nhưng còn là Thiên Chúa ở bên trong con người. Và, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là dấu lạ cả thể nhất, bởi vì đó là dấu chứng của tình yêu… Chúa Giêsu đã nói đến dấu chứng đó khi dùng hình ảnh của tiên tri Giona. Giona được Thiên Chúa sai đến cho dân thành Ninivê. Ông tưởng Chúa sẽ dùng ông để làm một dấu lạ cả thể khiến dân thành sẽ tin vào sứ mệnh của ông. Nhưng cuối cùng, qua con người của ông, Thiên Chúa chỉ kêu mời sự hoán cải và tình yêu.
Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta qua những sinh hoạt và những biến cố tầm thường nhất trong cuộc sống. Ngài mời gọi chúng ta nhận ra Ngài trong cái ăn, cái uống, cái mặc, trong tiếng cười, tiếng khóc, trong tất cả mọi gặp gỡ của chúng ta với tha nhân… Và ngay cả trong cái chết mà con người cho là điểm cuối cùng của cuộc sống, Thiên Chúa cũng có mặt.
Nhận ra Ngài như cô gái bán hoa đã nhận ra giọng nói của chàng Charlot, đó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Một đức tin trưởng thành không đòi hỏi và thử thách Thiên Chúa, nhưng tín thác và nhận ra dấu chỉ của Ngài qua những cái tầm thường nhất của cuộc sống.

samedi 9 décembre 2017

NGÀI ĐI QUA ĐỜI TÔI

NGÀI ĐI QUA ĐỜI TÔI

Tâm sự về người cha, người thầy, và người bạn rất thân thương

Đức Giám Mục Đaminh Mai Thanh Lương

Trần Mỹ Duyệt


 
Đối với giáo dân trong địa phận thì ngài là vị Giám Mục thánh thiện, hiền lành, nhân từ, và hòa đồng. Riêng đối với tôi thì ngài là người cha, người thầy, người bạn rất thân thương, rất gần gũi, và có thể tâm sự, cởi mở với nhau một cách tự nhiên, thân tình và thoải mái. Ngài chưa bao giờ xưng mình là giám mục, ngay cả tiếng “cha” với tôi. Ngược lại luôn luôn xưng là "mình", một chữ mình hết sức gần gũi, chan hòa tình thân hơn cả ruột thịt. Ngài cũng rất ít khi hoặc chỉ lỡ miệng gọi tôi bằng tiếng “ông", một tiếng gọi tuy thông thường nhưng nghe xa lạ trong mối tương quan giữa hai chúng tôi.

Ngài đến với tôi trong một dịp tình cờ. Năm 1993, tôi muốn xin “Imprimatur” cho một cuốn sách viết về đời sống đạo. Lúc đó, ngài còn là Đức Ông chính xứ Các Thánh Tử Đạo ở New Orleans, và mặc dù chưa một lần gặp mặt, ngài đã vui vẻ nhận lời và giúp tôi được chuẩn y của giáo quyền. Tình cảm của tôi dành cho ngài bắt đầu từ đó. Nhưng phải chờ đến dịp ngài được tấn phong Giám Mục, vị Giám Mục tiên khởi người Việt hải ngoại trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Lịch sử đã ghi nhận, ngày 25 tháng 4 năm 2003, Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange, một Giáo Phận có đông tín hữu Việt Nam. Ngài được tấn phong ngày 11 tháng 6 năm 2003. Hơn 10 năm trong thiên chức Giám Mục, ngài đã nghỉ hưu ngày 20 tháng 12 năm 2015. Và sau 2 năm sống trong âm thầm, khiêm tốn và chịu đựng chuẩn bị tâm hồn, lúc 10:20 sáng, Thứ Tư, ngày 6 tháng 12 năm 2017, ngài đã trút hơi thở cuối cùng về với Chúa như lòng ngài hằng mong ước tại bệnh viện St. Joseph, nơi mà ngài vẫn thường ra vào trong những tháng cuối đời vì bệnh tật, hưởng thọ 77 tuổi.

Ngài đi qua đời tôi như một cơn gió thoảng, như một hơi thở, và như một thoáng qua mau nhưng đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm không bao giờ quên. Tôi dự định sẽ đến thăm ngài vào khoảng 1 hoặc 2 giờ chiều, thì lúc 10giờ 30 đã nhận được tin ngài qua đời. Đúng là ngài đã tới và đã đi mà không cần một lời báo trước hay từ giã!!! Nếu tôi có ân hận gì đối với ngài thì chỉ là trong giờ phút lâm chung của ngài tôi không có ở bên giường bệnh ngài. Ngoài ra, trong suốt thời gian hưu dưỡng và trong những tháng cuối đời của ngài tôi luôn luôn có mặt bên ngài, có thể nói là hằng tuần hoặc hằng ngày. Cũng chính vì ở bên ngài, tôi mới nhận ra một điều rất riêng tư, nhưng cũng rất đau lòng, đó là, ngài rất cô đơn, và bệnh tật cũng như những lần ra vào nhà thương đã làm cho ngài rất đau đớn và mỏi mệt.
Một trong những điều khiến tôi ghi nhớ về ngài, là không bao giờ tôi nghe ngài phê bình hoặc chỉ trích ai. Ngài có lòng yêu mến giới tu trì. Ngài hiền từ, nhân hậu, đối xử một cách công bằng, tôn trọng, cũng như rộng rãi với những ai sống bên ngài.

Những lần cha con đi ăn với nhau, ngài luôn cử xử một cách rất “galang”, có nghĩa là nay anh, mai tôi. Riêng những đồ vật gì ngài mua thì ngài tự tay trả tiền. Một lần hai cha con ghé vào một cửa hàng mua thức ăn, trong lúc bước ra khỏi cửa, có người ăn xin ngồi bên ngoài ngửa chiếc mũ ra xin tiền. Tôi có 4 đồng tiền lẻ và rút ra 2 đồng đưa cho người ăn xin. Ngài nhìn thấy vậy, nói ngay: "Sao không đưa hết cho ông ta?" Rồi ngài dùng tiếng Anh để nói với tôi một câu như vừa nhắc nhở, và cũng vừa trách khéo "stingy" có nghĩa là "cái thứ bần tiện”. Nhờ vậy, tôi đã học được đức bác ái và lòng rộng rãi của ngài để biết cách cư xử đối với những kẻ khốn cùng sau này.
Ai không quen biết ngài cứ tưởng ngài thiếu khôn ngoan hoặc quá dễ dãi, nhưng thật sự ngài hành động một cách rất quyết đoán và có suy nghĩ. Trong một lần chở ngài đi ăn trưa, thoạt đầu hai cha con đã quyết định đến một nhà hàng nọ, nhưng trên đường tôi muốn đổi ý, ngài liền nói ngay: "Đã quyết định cái gì thì phải làm. Thua thắng gì mình rút kinh nghiệm. Cứ tới nhà hàng mình đã chọn trước”.
Không chê ai và cũng không phê bình ai. Mỗi lần một vài anh em quây quần bên ngài, hoặc trong chỗ riêng tư, tôi muốn hỏi ngài điều gì mà có dính dáng đến người khác, ngài bao giờ cũng trả lời bằng một câu rất quen thuộc: “Mình biết ma gì!". Tôi hiểu là ngài không muốn đề cập đến chuyện đó. Qua hành động đó, ngài đã dạy tôi bỏ được cái tính tò mò về người khác khi không thuộc trách nhiệm và quyền hạn của mình.

Chân thành, tôn trọng người khác, ngài còn có một đặc tính đáng yêu nữa là tính đơn sơ, trong sáng. Thỉnh thoảng cha con hay giả dạng trốn mắt thiên hạ để gọi là "đi bụi”, tức là đi chợ, đi vào các siêu thị mua bán mấy thứ đồ dùng lặt vặt. Nhưng đã có mấy lần bị bại lộ. Thí dụ, lần đó, cha con rủ nhau đi mua trứng vịt lộn, ai dè khi bước vào tiệm, ông chủ nhận ra ngài rồi chào thưa rối rít. Khổ nữa là trong tiệm ngày hôm đó lại có một linh mục mới từ Việt Nam qua cũng được gia đình cho đi tham quan một vòng Little Saigon, và đang có mặt ở đó. Ngài tỏ vẻ bình thản và đơn sơ không một chút quan ngại. Trên đường về ngài nói: "Giám mục thì cũng đi mua trứng vịt lộn có sao." Rồi ngài trào phúng thêm: "Nhưng chắc ngày xưa thánh Phêrô muốn ăn trứng vịt lộn thì có bà Phêrô đi mua, chứ không như Giám Mục Lương”.

Nổi bật nhất là lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và lòng yêu mến Đức Mẹ. Chính ngài đã khuyến khích tôi dịch cuốn Đàm Đạo Với Chúa Bằng Thánh Kinh, và biên cuốn Maria Mẹ Việt Nam mà cả cuốn sách ngài đều bỏ tiền in ấn và phổ biến. Cảm tình đầu tiên về ngài lúc mới làm Giám Mục, đó là một buổi chiều khi đến thăm ngài, tôi thấy ngài đang quì một mình trong nhà nguyện, mắt nhìn lên nhà tạm. Một hình ảnh thánh thiện, thiêng liêng mà sẽ không bao giờ tôi quên về Ngài. Do lòng yêu mến Thánh Thể và Mẹ Maria, chính ngài đã soạn tác phẩm: Thánh Thể và Chuỗi Mân Côi (7 Mẫu chầu và Mầu Nhiệm Mân Côi) để giúp tín hữu tăng lòng yêu mến Thánh Thể và Phép Lần Hạt Mân Côi.
Trong những ngày tháng bệnh tật, ngài thường dâng lễ một mình, có hôm chỉ có tôi và ngài hai cha con cùng dâng lễ. Thật là cảm động vào những ngày tháng sau cùng khi ngài không dâng lễ được nhưng không bỏ rước Thánh Thể. Hôm đó, tôi đến thăm ngài vào buổi sáng và ngài nói tìm một phó tế mang Mình Thánh Chúa cho ngài. Tôi đã hỏi ngài có muốn ăn uống chút gì cho tỉnh táo trước khi rước lễ không? Ngài đã trả lời: “Không cần gì hết, chỉ cần Chúa Giêsu thôi!". Lời nói này phản ảnh lòng đạo đức của ngài đã được chính Đức Giám Mục Kevin Vann nhắc lại trong thánh lễ đưa chân, 5:30 chiều, Thứ Tư, ngày 6 tháng 12 năm 2017, Đức cha nói: "Hôm thứ Ba khi ĐC Dominic Lương đã kiệt sức, ngài nói đi tìm cho ngài vị Tuyên úy nhà thương và tìm cho Ngài Chúa Giêsu ở đâu… Sr. Catherine đang ở đó với Ngài, và tòa giám mục biết tin… nên chính tôi đã tới đưa Mình Thánh Chúa trao ban cho ngài, và tôi nói với Ngài: Chúa Giêsu đến ở đây với Cha và ở với Cha luôn mãi đây…" (Vietcatholic.net).

Lòng yêu mến Chúa Giêsu gắn liền với lòng yêu mến Đức Mẹ. Khi ở nhà cũng như khi vào bệnh viện, tôi luôn thấy trên tay, trên giường bệnh ngài có cỗ tràng hạt. Mỗi lần đi đâu về món quà mà ngài tặng tôi thường là những cỗ tràng hạt đẹp, được Giáo Hoàng làm phép. Trong một clip ngắn do nữ tu Catherine Nguyễn, cựu thư ký của Đức Cha phổ biến, trước giờ lâm chung, Đức Cha và nữ tu Catherine đã cầu nguyện với Đức Mẹ, bằng với cả con tim và lòng yêu mến:

Mẹ ơi con yêu Mẹ.
Yêu từ hồi thuở bé,
yêu mãi đến tuổi già,
yêu tha thiết bao la.
Mẹ ơi con yêu Mẹ.
Yêu từ hồi thuở bé,
giờ chết Mẹ thương nhé,
chết trong tình yêu Mẹ.

Cả hai cha con đều hát một cách sốt sắng cho đến khi ngài chìm vào giấc ngủ…
Từ hôm nay, tôi không còn được nghe tiếng gọi thân yêu của ngài: "Mỹ Duyệt có bận gì không? Ghé qua đây, mình có chuyện muốn bàn." Hoặc: “Duyệt có rảnh không, ghé ăn trưa với mình, ở đây có nhiều thức ăn ngon lắm.” Đơn sơ, khiêm nhường và hiền lành. Ngài đã qua đi trong đời tôi như một thiên thần, nhưng trên hết là một người cha, người thầy và người bạn mà tôi sẽ không bao giờ quên.
Hãy nghỉ giấc bình an thưa cha! Trên cao xanh kia, bên Chúa và Đức Mẹ xin cha cầu cho chúng con, cho quê hương Việt Nam, cho hòa bình Việt Nam, cho Giáo Hội Việt Nam, và cho những người đang đau khổ, nghèo đói mà cha luôn dạy chúng con phải yêu thương họ.
 
Trần Mỹ Duyệt
7 tháng 12 năm 2017

*******************************************************************

Đa Minh Mai Thanh Lương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương
Giám mục Phụ tá Giáo phận OrangeCalifornia
(2003 - 2015)
Giáo hộiCông giáo Rôma
Giáo phậnGiáo phận Orange
TòaGiáo phận Orange
Bổ nhiệm25 tháng 4 năm 2003
Tựu nhiệm11 tháng 6 năm 2003
Hết nhiệm20 tháng 12 năm 2015
Tiền nhiệmJaime Soto
Truyền chức
Thụ phong21 tháng 5 năm 1966
Tấn phong11 tháng 6 năm 2003
Thông tin cá nhân
Tên khai sinhMai Thanh Lương
Sinh20 tháng 12, 1940
Trục NinhNam ĐịnhViệt Nam
Mất06 tháng 12, 2017 (76 tuổi)
Quốc tịchHoa Kỳ Hoa Kỳ
Hệ pháiCông giáo
Con cáiKhông
Nghề nghiệpTu sĩ Công giáo
Alma materĐại chủng viện giáo phận
chủng viện Thánh Bênađô
Khẩu hiệu"Anh chị em không phải người xa lạ"
Cách xưng hô với
Đa Minh Mai Thanh Lương
Coat of Arms of Bishop Dominic Mai Luong.svg
Danh hiệuĐức Giám mục
Trang trọngĐức Giám mục, Đức Cha
Thân mậtCha
Khẩu hiệu" Anh chị em không phải người xa lạ "
TòaGiáo phận Orange
Đa Minh Mai Thanh Lương (hoặc Đôminicô Mai Thanh Lương), (1940-2017) là giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, từng giữ chức giám mục phụ tá của Giáo phận Orange (California) từ năm 2003 đến năm 2015.[1].

Thân thế và tu tập[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh ngày 20 tháng 12 năm 1940 tại huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu.[2] Ông còn có một người anh là linh mục Mai Ngọc Lợi, nay đã mất.[3] Năm ông 14 tuổi (1954), thì gia đình di cư vào miền Nam, cư ngụ tại Giáo phận Ðà Nẵng. Năm 16 tuổi, ông được cử qua Hoa Kỳ học tại Đại chủng viện giáo phận Buffalo (New York) và chủng viện Thánh Bênađô thuộc Đại học Canisius ở Buffalo.

Linh mục rồi Đức ông[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 21 tháng 5 năm 1966, ông được thụ phong linh mục tại Buffalo cho Giáo phận Đà Nẵng ở Việt Nam vì hoàn cảnh bấy giờ không về nước được.[4] Sau đó làm giáo sư tại Chủng viện Mỹ. Sau năm 1975, vì hoàn cảnh lịch sử, ông không thể về Việt Nam nên thi hành tác vụ linh mục tại Buffalo, rồi tại New York và cuối cùng gia nhập giáo phận New Orleans, năm 1976. Ông được giáo hoàng ban tước vị Ðức ông ngày 15 tháng 12 năm 1986. Ông là thành viên của Hội đồng Linh mục của giáo phận New Orleans, từ năm 1987 đến năm 1998; Từ năm 1989 đến năm 2003, ông được Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ bổ nhiệm phục vụ cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, vừa đồng thời là cha sở Giáo xứ Ðức Maria Nữ vương Việt Nam, tại New Orleans.[4]

Giám mục[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 25 tháng 4 năm 2003Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ông làm Giám mục phụ tá Giáo phận Orange, nơi có số lượng người Công giáo Việt Nam đông nhất tại hải ngoại.[4] Việc bổ nhiệm giám mục Lương là vị Giám mục Á Châu thứ hai tại Hoa Kỳ và là vị Giám mục Việt Nam đầu tiên tại Hoa Kỳ. Vị Giám mục Á Châu đầu tiên là Giám mục Ignatiô Uông Trung Chương quê quán tại Bắc Kinh, Trung Quốc được tấn phong Giám mục tại San Francisco vào tháng 1 năm 2003. Ðức Ông Mai Thanh Lương được tấn phong Giám mục tại Nhà thờ Thánh Columban ở Garden Grove, California vào ngày Thứ Tư 11 tháng 06 năm 2003.[4] Ông từng về Việt Nam lần đầu vào năm 2006 để viếng thăm Tổng giáo phận Huế và dòng Thánh Tâm với tư cách là một giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ. Cùng đi với ông còn có một giám mục phụ tá khác của Giáo phận Orange, 1 nữ tu dòng Mến Thánh Giá và 2 giáo dân người Mỹ.[5]
Ngày 20 tháng 12 năm 2015, văn phòng Toà Thánh loan tin Giáo hoàng Phanxicô chấp thuận đơn từ chức của ông vì lý do tuổi tác theo Giáo luật.[6] Ông nói rằng đây là điều ông mong muốn trong dịp sinh nhật của mình.[3] Cũng trong khoảng thời gian cuối năm 2015, ông đến Việt Nam thực hiện công việc mục vụ trong vòng một tháng, đến ngày 27 tháng 12, ông gặp gỡ Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, ông đã tới viếng Ðức Mẹ La Vang vào buổi sáng và ghé thăm và nói chuyện với các linh mục và Tu sĩ Dòng Thánh Tâm, theo lời mời của linh mục Antôn Huỳnh Ðầy, Bề trên Tổng quyền của Dòng.[3] Ông qua đời tại Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 12 năm 2017.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]